Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” của Phan Bội Châu
Phân Bội Châu không chỉ được biết đến là người tri thức yêu nước mà bên cạnh đó ông lại có tài văn chương. Và bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông đã làm tặng các đồng chí trong buổi đầu lên đường. Và thời điểm sáng tác bài thơ này có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
“Xuất dương lưu biệt” là một tác phẩm hay được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Và đây cũng chính là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước, cứu dân.
Hai câu để là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sông cao cả:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
Ông như cũng đã rất ự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” (yêu hi kì). Suy cho thêm rộng ra, là không thể sống tầm thường. Và cũng không thể sống một cách thụ động cho trời đất (càn khôn) “tự chuyển dời” đó chính là một lối sống theo cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ dường như cũng đã thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đời. Và cũng chính bởi tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp to lớn như phải xoay chuyến trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác đó là:
“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.
Dường như gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh vô cùng sôi nổi của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, ta dường như mới có thể cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đó chính là một đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ hào hùng đó là:
“Mỗi phận bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”
(“Tùy viên thi thoại” – Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ấy văn chương).
Ta như có thể thấy được một đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời ấy có một “bầu máu nóng” sôi sục đó là “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành dạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy…” (Ngục trung thư).
Ở những câu trong phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
“Ngã” được hiểu là ta: “tu hữu ngã” nghĩa là phải có ta trong cuộc đời “một trăm năm ” (bách niên trung). Câu thơ cũng như đã khéo léo khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Và chính câu“Thiên tải hậu” nghìn năm sau, như muốn nói đến chính là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không cố ai (để lại tên tuổi) ư? Vfa cả hai câu 3, 4 ta như thấy được có một đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Và đây là một ý thơ đẹp như sẵn sàng hi sinh vì dân vì nước. Ta như nhớ đến câu:
“… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.
(“Hịch tướng sĩ’ – Trấn Quốc Tuấn).
“… Nhân sinh tự cổ thày vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
(Văn Thiên Tường)
Tác giả như cũng đã lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người đối với cái vô hạn “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu cũng như tinh tế khi ông cũng đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Và có lẽ rằng vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
“Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiềm sợ gi đâu!”
(“Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông”)
Và trong phần luận, tác giả thật tinh tế khi đã nói về sống và chết, nói về công danh. Đây, có lẽ chính là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Và điều đó chính là khi non sông đã chết, đã bị ngoại xâm chiếm, nchusng như cũng đã giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu mà thôi. Có thể nói rằng trong chính hoàn cảnh ấy có nấu sử xôi kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Ta cũng như đã thấy được sách vở của “thánh hiền” liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”.
Phan Bội Châu dường như cũng đã đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành, ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, và dường như với ông thì không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả.
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên “điều lạ’ ở trên đời, mới tự khẳng định được: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ”.
Ta có thể khẳng định rằng phần luận là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm màu sắc lãng mạn:
Nguyện trục đường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”.
Ta thấy được ở hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: “Trường phong” (ngọn gió dài), “thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc), được hiểu là hai hình tượng kì vĩ. Có thể thấy được chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ “nguyện trục” (mong đuổi theo) và “nhất tề phi” (cùng bay lên). Ta như đã thấy được chính âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thề hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu, ở đâynhư thật đầy nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của một nhà yêu nước, một chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
“Xuất dương lưu biệt” được xem là bài thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ chính là một tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước và cũng đầy lòng thương dân, ông cũng đã dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và đây chính là một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Đó có chăng là cảm hứng, lý tưởng anh hùng ca một thời.